Thứ Năm, 14 tháng 5, 2015

TẢN MẠN QUANH MẤY CẶP LỤC BÁT CỦA NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG LAI




Tôi thích thơ Đỗ Trung Lai ngay từ khi đọc bài thơ: “ Tôi ru con gái tôi” của ông. Thật tình là tôi đã thường xuyên mượn bài thơ ấy để ru con ru cháu mình như người xưa vẫn ru bằng ca dao hoặc Truyện Kiều vậy. Tôi cũng rất thích những bài thơ Đỗ Trung Lai viết tặng vợ. Bởi tôi tìm thấy ở đó biết bao niềm yêu thương, thấu hiểu; sự trân trọng của thi nhân với người vợ tao khang. Hình ảnh người vợ tần tảo, chắn vén, quạnh quẽ trong công việc gia đình đã đi vào thơ ông thật tự nhiên chân thực mà vẫn rất truyền cảm: " Sau giờ làm việc/em trở về nhà/xách trên tay cả một phiên chợ cóc/với thịt, cá, rau, dưa, tôm, cua, ốc, ếch.../Rồi em chế ra những món quê mùa/làm lu mờ mọi yến tiệc… Em là mảnh hồ cuối cùng/sau khi người ta lấp hết hồ đi/để lấy đất xây nhà/Em là câu ca dao cuối cùng/của nền quốc gia âm nhạc/Em là mảnh ruộng cuối cùng/sau đô thị hóa/Em là bảo tàng dân tộc học nhà ta". Hoặc: " Vào những ngày nghỉ/em quét sạch mọi chỗ/em giặt sạch mọi thứ/(Chỉ có anh, các con và con mèo nhà mình là chưa bị em cho vào máy giặt!). Em là Nguyễn Đình Chiểu của nhà ta - ghét bụi bặm như nhà nông ghét cỏ/Anh đã thấy nhiều ngôi nhà hoang/vì thiếu bàn tay phụ nữ/Nhà mình giàu hơn người là nhờ có em".
Đọc những câu thơ ấy và những câu thơ nhà thơ dặn con gái: “Ở nhà biết vá biết thêu/ Ra đường kẻ ghẹo người trêu mặc người/ À ơi thân gái ở đời/ Cổ kim đâu cũng quý người thủy chung” thì tôi cứ bụng bảo dạ rằng: Đây đúng là mẫu đàn ông lý tưởng không lóa mắt bởi những cái đẹp hình thức màu mè, luôn trân trọng những vẻ đẹp truyền thống và hết lòng yêu vợ quý con. Thậm chí tôi còn cho rằng, với ông, không thể có chút “xao lòng” nào trước phái đẹp, ngoài vợ mình ra.
Nhưng ứ phải vậy đâu, người đàn ông dù yêu vợ đến cỡ nào thì vẻ đẹp của giai nhân vẫn cứ hớp hồn họ như thường. Nhất là với các thi sĩ thì họ sẵn sàng đánh đổi tất cả đấy. Và Đỗ Trung Lai không những không phải là ngoại lệ mà còn là một điển hình trong lĩnh vực này nữa kia. Tôi khẳng định điều này một cách chắc chắn như thế, vì sau khi đọc bài thơ “Ngũ Hồ ở Bắc Ninh” của ông. Tôi xin phép không đưa cả bài thơ ấy ra đây vì không có ý định bình toàn bài (dù cho đó là một trong những bài thơ hay của ông). Bài thơ ấy ông ghi lại cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của người thiếu nữ quan họ. Tôi chỉ xin nhặt ra đây hai cặp lục bát mà tôi sung sướng đến run người khi đọc chúng và nó lập tức bám riết vào tâm trí tôi đến độ tôi đã thuộc lòng ngay mà còn nghĩ rằng chẳng bao giờ mình quên được nó nữa.
Cặp thứ nhất là:
Em ra ngoài bến lên thuyền 
Thánh thần cũng muốn bỏ đền ra sông
Chẳng biết có quá chủ quan, cảm tính không nhưng tôi cứ đinh ninh rằng đây là hai câu thơ tả vẻ đẹp của người phụ nữ hay nhất từ trước đến nay (mặc dầu tác giả không hề tả cụ thể một chút nào). Nhưng không ai đọc đến hai câu thơ này mà lại không nghĩ rằng người phụ nữ này rất đẹp vậy. Và cứ thế, tùy vào khả năng tưởng tượng của mỗi độc giả, vẻ đẹp ấy được hiện ra với nhiều dáng vẻ cụ thể khác nhau. Với tôi, tôi mường tượng nàng đẹp thướt tha, duyên dáng uyển chuyển với những bước đi nhẹ nhàng, với đôi gót chân thon nhỏ trắng hồng, với những đường cong mềm mại nổi bật trong cách trang phục mớ bảy mớ ba của liền chị quan họ, với khuôn mặt “búp sen” , nét cười đằm thắm, ánh mắt hút hồn đến mê hoặc…không bút nào có thể tả hết được. Có lẽ, nàng hội tụ cả vẻ đẹp của Tây Thi, Thúy Kiều… và cả cái hồn của người quan họ, của những làn điệu dân ca làm say lòng người nữa. . Chẳng thế mà chỉ cần nàng ra bến lên thuyền cũng làm cho các bậc thánh thần vốn siêu thoát yên vị nơi đền thiêng rồi cũng còn “ muốn bỏ đền ra sông” kia mà! Thật tuyệt làm sao chỉ có một cặp lục bát thôi, lại không có một từ đẹp nào, thậm chí không có một từ miêu tả những nét đẹp cụ thể của cô gái quan họ mà cứ thế, vẻ đẹp của nàng hiện lên đến lung linh, diễm kiều đầy mê đắm và cuốn hút.
Trước vẻ đẹp diệu kì đó của nàng, chàng thi sĩ si tình đắm đuối, Đỗ Trung Lai chỉ muốn biến con sông Cầu nước chảy lơ thơ của vùng Kinh Bắc thành Ngũ Hồ để được tận tâm chiều chuộng phục vụ nàng. Hồ thì “dầm cái tương tư”; hồ thì “giặt áo tứ thân” ; cái hồ hay có mây mưa thì chàng muốn được “ giặt yếm nàng vừa cởi ra”; cái hồ nước đỏ như son thì chàng muốn dùng nước đó cho nàng “tẩm chân”. Chiều chuộng chừng đó vẫn chưa thỏa niềm yêu và sự trân trọng ngưỡng mộ của chàng với nàng. Chàng còn muốn vứt bỏ cả sự nghiệp để trọn vẹn vì nàng:
Bao nhiêu sách viết thơ tình
Ta đem xé hết cho mình thấm Chân
Mê đắm đến thế là cùng! Bởi vì, với một nhà thơ thì sự nghiệp thơ ca, nhất là những áng thơ tình là những đứa con tinh thần được sinh ra từ những thai nghén buồn vui những tâm huyết của đời thơ thật đáng quý xiết bao. Vậy mà trước nàng, thi sĩ Đỗ Trung Lai sẵn sàng xé hết để cho nàng “ thấm chân” kia đấy. Từ “ thấm” trong câu thơ trên thật tuyệt vì nó gợi ra một cử chỉ rất đỗi nhẹ nhàng, nâng niu chiều chuộng đến mức trân trọng. Nếu ta thay từ thấm bằng các từ khác tương tự như: lau, chùi, bao, chấm… chẳng hạn thì đều không còn đủ sức để diễn tả sắc thái tình cảm yêu thương nâng niu rất gượng nhẹ và vô cùng trân trọng của thi sĩ nữa. Mà ngược lại nó làm cho câu thơ trở nên thô, làm cho tình yêu mất đi nét tinh tế mà vẫn hết mình, đắm say mà vẫn rất thánh thiện, nâng niu mà không quỵ lụy…
Có thể nói, Đỗ Trung Lai đã viết nên những câu thơ trên nói riêng và cả bài thơ “Ngũ hồ ở Bắc Ninh” nói chung bằng một cảm xúc chân thành mãnh liệt của lòng mình và bằng thứ ngôn ngữ thơ rất giản dị, rất truyền thống chứ không hề cầu kì chút nào. Lời thơ và hơi thơ cứ trôi chảy một cách tự nhiên nhưng không trôi tuột đi mà ngược lại nó neo đậu, ám ảnh và khơi gợi sự liên tưởng trong ta và truyền đến ta những cảm xúc ngây ngất không cùng. Tôi nghĩ rằng, phu nhân của Đỗ Trung Lai khi đọc bài thơ này dẫu có tức điên lên vì phu quân của mình đã bị hớp hồn bởi một bóng hồng quan họ thì cũng sẽ thể tất cho chàng vì bài thơ hay quá!


                                        14-5-2015
                                         Song Thu