( Tổ thơ xóm Núi)
( Ông Bùi Trác Trường và phu nhân)
( Ông Vũ Bá Huyên)
Tổ thơ khu phố Nguyễn
Trãi 2 mà chúng tôi quen gọi là tổ thơ phố núi chỉ
có vẻn vẹn hơn chục người thôi. Ai cũng nghỉ hưu từ
lâu rồi. Vì về hưu mới có thì giờ mà thơ ca hò vè
chứ. Ít người thì ít thật nhưng sinh hoạt đều đặn
lắm và mỗi năm vẫn cho ra đời một tập thơ kia đấy.
Tính đến năm 2017 vừa qua đã có đến 11 tập thơ chào
đời rồi. Như thế là tổ thơ đã hoạt động được
11 năm. Vui vẻ, ấm cúng và nồng đậm nghĩa tình cũng là
một nét đặc trưng tiêu biểu của tổ thơ này.
Tuy
vậy, năm vừa qua lại có tới hai thành viên đã về với
tổ tiên. Dẫu biết rằng : “sinh, lão, bệnh, tử” là
lẽ thường của cõi đời. Song ai trong tổ thơ chúng tôi
cũng thấy buồn và trống vắng lắm. Mới hồi tháng 11
năm ngoái, sinh hoạt còn đủ mặt anh hào, thế mà lần
sinh hoạt đầu năm nay đã vắng mất hai người rồi.
Trước ngày sinh hoạt, Song Thu mới lần tìm những bài
thơ của hai bậc tiền bối để đọc lại mà lòng không
khỏi bùi ngùi xúc động. Bởi đọc thơ mà như thấy hai
ông cứ hiện ra rõ mồn một, từ dáng hình đến điệu
sinh hoạt và cốt khí của từng ông. Có câu: “ Văn là
người” quả không sai vậy.
Tôi xin chọn để giới
thiệu một bài thơ của ông Vũ Bá Huyên, một ông già
thon gọn, tầm thước vừa mau mồm mau miệng vừa nhanh
nhẹn trong mỗi bước đi, một ông già hôm nào cũng dậy
từ 4h sáng để tập thể dục đến khoảng hơn 5h là vào
ăn sáng rồi lại đi bộ thăm bạn bè gần hoặc đạp xe
đi thăm bạn bè xa hơn chút xíu. Ông hay làm thơ Đường
luật thất ngôn bát cú về các con vật như con cua, con
ếch, con cóc con cò hoặc con ốc con cá vv… Cũng có khi
ông lại dùng thơ Đường để tự hoạ chân dung của
chính bản thân mình. “Tuổi tám mươi” là một bài
thơ như thế:
Tôi thọ năm nay tám chục tròn
Trông
sau người bảo vẫn trai son
Là nhờ nhà nước tinh
thần tốt
Lại được gia đình vật chất ngon
Thể
dục năng rèn cơ chậm tóp
Dưỡng sinh siêng luyện
cốt lâu giòn
Rượu chè, thuốc sái a lê tuốt
Nên
tuổi tuy già dáng vẫn thon
2004
Vũ Bá Huyên
Một bài thơ Đường rất chuẩn về niêm luật,
rất chặt chẽ trong kết cấu nhưng không trang trọng cổ
kính, gò bó khuôn sáo mà rất giản dị. Thậm chí là nôm
na và mộc mạc trong từng câu từ và rõ ràng rành mạch
trong ý tứ nhưng vẫn đủ sức cuốn hút người đọc.
Nó đúng là một bản phác thảo thô mộc về bản thân
nhưng không thô thiển mà pha chút cười cợt hom hóm nên
đọc lên thấy vui vui và ý vị. Tôi thích cách dùng những
cụm từ dân dã mà giàu sức gợi của tác giả như: trai
son, tinh thần tốt, vật chất ngon, cơ chậm tóp, cốt lâu
giòn và nhất là những từ trong câu 7: “ rượu chè
thuốc sái a lê tuốt” thì thật là không còn có thể
mộc mạc hơn. Nó như một khẩu ngữ thuần phác được
bê nguyên vẹn vào một bài thơ cổ mà đọc lên không
chút gợn. Ngược lại ta thấy một thái độ dứt khoát
không dính líu đến những tệ nạn, những thứ độc hại
của một ông già qua một bài thơ có giọng điệu vui
vui, tưng tửng như cợt đùa chứ không hề lên gân lên
cốt hoặc cao giọng giáo huấn răn dạy chi cả .Tôi lẩn
mẩn làm một phép thử để thay những từ khác vào như
thay từ “thuốc sái” bằng thuốc lá, rồi thay cụm từ
“a lê tuốt” bằng cụm từ không màng tới, không dùng
tuốt vv… thì đều thấy không ổn chút nào.Vì thay như
thế, tuy ý thơ không có gì khác biệt đáng kể nhưng
giọng điệu thơ và vị thơ thì đã mất hẳn rồi. Thế
mới biết những khẩu ngữ được dùng đúng chỗ lại
trở nên đắc địa và sinh động biết bao.
Điều
đặc biệt nữa là kết cấu của bài thơ cũng rất tự
nhiên và chặt chẽ. Này nhé, câu phá đề,giới thiệu cụ
thể về tuổi thọ của bản thân rất nghiêm túc và
chuẩn xác: “ Tôi thọ năm nay tám chục tròn”. Đến
câu thừa đề lại nói về độ trẻ trung của ông lão
một cách rất khách quan: “ Trông sau người bảo vẫn
trai son”. Nghĩa là, thực tình tôi đã tám mươi tuổi
rồi nhưng người ta vẫn bảo tôi trẻ trung như trai son
vậy. Thế rồi tất cả những câu sau lại lý giải tỷ
mỷ vì sao tôi có được sự tươi trẻ ấy. Trước hết
“là nhờ Nhà nước tinh thần tốt”. Câu này có vẻ
như hơi sáo chăng? Không đâu. Chân thực lắm đấy. Đã
nhiều lần ông tâm tình với tôi: “ Tôi tham gia phá kho
thóc của Nhật rồi bỏ làng ra đi đến làng Thủ Chính
làm thuê làm mướn kiếm ăn. Dân ngụ cư bị coi thường
lắm. Đói rét, bệnh tật tôi đều đã trải qua rồi.
May mà ơn Đảng ơn Bác ơn Nhà nước nên mới được như
ngày hôm nay; Đã có hơn 40 năm tuổi Đảng, lại có lương
hưu, có nhà đất đàng hoàng, tôi chả còn mong ước gì
hơn”. Như thế là nhờ nhà nước mà tinh thần tốt là
chính xác rồi. Kế đến là “ được gia đình vật chất
ngon”. Nghĩa là được vợ con lo chu tất về miếng ăn
miếng uống giúp tôi thấy ngon miệng lắm. “ vật chất
ngon” là một cách nói là lạ và khá ấn tượng. “Ngon”
chứ không phải sang hay nhiều đâu nhé. Từng sống gần
ông mấy chục năm, tôi biết cái “ vật chất ngon” với
ông thanh đạm và bình dị lắm. Chỉ mỗi bưa vài lưng
cơm gạo quê, bát canh rau vườn nhà, chút thịt hoặc cá
tép kho hay vài miếng đậu. Thế thôi chứ chẳng phải
sơn hào hải vị gì nhưng ông cụ cảm thấy ngon miệng
lắm. Điều quan trọng nhất để giữ được thân thể
khoẻ trẻ dài theo năm tháng được tác giả nhấn mạnh
là do bản thân chăm rèn luyện thể dục và tránh xa những
thứ độc hại…
Thể dục năng rèn cơ chậm
tóp
Dưỡng sinh siêng tập cốt lâu giòn
Rượu
chè thuốc sái a lê tuốt
Từ đó tác giả kết luận
một cách đầy tự tin rằng: “ Nên tuổi tuy già dáng
vẫn thon”.
Bài thơ cứ phô bày hết mọi nhẽ chứ
không ẩn dụ, nói bóng nói gió gì; Đọc lên ai cũng
hiểu, không cần phải giảng giải ;Nhưng ta không thấy
nhạt bởi nó tải được cái hồn cốt thần thái của
tác giả trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, một nếp
sống thanh đạm, lành mạnh, vui vẻ. Nó cũng nêu lên một
bài học thật quý giá được rút ra từ thực tế cụ
thể sinh động trong cuộc sống của chính bản thân tác
giả . Bởi thế mà không hô hào, vận động, không giảng
giải lý lẽ hay khuyên răn dạy bảo ai, bài thơ, tự thân
nó đã mang ý nghĩa giáo dục lớn. Đó chính là thơ có
ích cho đời vậy.
Nếu ông Vũ Bá Huyên say mê viết
thơ Đường luật thì ông Bùi Trác Trường lại thường
làm thơ lục bát. Và thơ ông Trường phần lớn là lấy
đề tài từ chính phu nhân của ông. Ông từng nói: “tôi
sẽ phấn đấu để trở thành người làm thơ về vợ
nhiều nhất Việt Nam” . Và thực tế đúng là như vậy.
Tôi xin nhặt ra đây một bài thơ thuộc đề tài ấy của
ông để mọi người chiêm ngưỡng:
MỪNG XUÂN CHO
BÀ
Chín sáu con gái mừng bà
Áo chùng bà mặc đậm
đà sắc xuân
Giao thừa đinh sửu đến gần
Năm
nay tôi sẽ mừng xuân cho bà
Thời kì kháng chiến đã
qua
Huân chương tôi lĩnh vài ba năm rồi.
Sáu mốt
năm tuổi của tôi
Tham gia chống Mỹ hai mươi năm
tròn
Thay chồng nuôi mẹ, dạy con
Năm tháng mỏi
mòn bà vất vả thay
Tiền Nhà nước thưởng tôi
đây
Đôi hoa mua sẵn xuân nay mừng bà
Nhìn về
quá khứ xa xa
Ngày tôi yêu bà đã tặng gì đâu
Nay
ngoài sáu chục tuổi đầu
Tặng hoa tuy muộn nhưng
sâu ân tình
Lại thêm cái tết hoà bình
Tuy chưa
nâng chén mà hình như say
Ngoài trời gió lộng mây
bay
Hẳn là tiên nữ hôm nay xuống trần
Tiên nữ
vui với táo quân
Còn tôi, tôi chỉ vui xuân cùng
bà
Giao thừa 1997
Bùi Trác Trường
Riêng đề
tài về tặng quà cho vợ cũng được tác giả Bùi Trác
Trường viết nhiều bài lắm. Nào là tặng quà nhân ngày
mừng thọ, nào tặng quà nhân dịp 8-3. Quà tặng cũng khá
đa dạng: Khi là nồi bún riêu cua, lúc là nồi nước tắm,
kèm theo động tác kì lưng rất đa tình. Song có lẽ, bài
“ Mừng xuân cho bà” là một bài tôi thấy xúc động
hơn cả. Trừ những câu thuộc phần đầu có vẻ kể lể,
dài dòng thì từ câu “ Thay chồng nuôi mẹ dạy con”đến
cuối bài đã lắng đọng tâm tư, đậm chất trữ tình
khiến người đọc rưng rưng rung cảm.Tác giả không chỉ
cảm kích và đánh giá cao công lao nuôi mẹ, dạy con của
vợ mà còn nhìn hình ảnh người vợ gầy guộc vất vả
bằng con mắt đầy yêu thương trân trọng : “ Năm tháng
mỏi mòn bà vất vả thay”. Tình cảm yêu thương ấy
được đẩy lên bước nữa bằng hành động cụ thể và
thiết thực mà tác giả dành cho vợ:
Tiền Nhà nước
thưởng tôi đây
Đôi hoa mua sẵn xuân nay tặng bà”
Sau hành động mua đôi hoa tai tặng vợ này, tác giả
không đi vào mô tả niềm vui sướng của vợ khi nhận
quà như nhiều bài thơ khác trong đề tài này của ông mà
bỗng dưng giọng điệu thơ chùng xuống, lắng lại trong
miên man hoài niệm:
Nhìn về quá khứ xa xa
Ngày
tôi yêu bà đã tặng gì đâu
Nay ngoài sáu chục tuổi
đầu
Tặng hoa tuy muộn nhưng sâu ân tình .
Tôi
muốn nhìn nhận khổ thơ này bằng một nhãn quan: “cách
cho hơn của mang cho”để thấy rõ hơn cái sức nặng
trong tình cảm của tác giả với phu nhân. Đã đành, món
quà đôi hoa tai không phải cái gì quá to tát nhưng cũng
không phải thứ rẻ mạt hay phù phiếm mà nó vừa có giá
trị như một món trang sức lại vừa có tính thiết thực
như một chút của để giành. Đặc biệt là khi trao tặng
món quà đó cho vợ, tác giả lại xót xa nghĩ về quá khứ
xa xôi từ thuở yêu đến khi thành vợ chồng rồi có con
có cháu tôi cũng chưa tặng được gì cho bà thì ta chợt
hiểu rằng, tác giả thương và yêu vợ biết bao nhiêu.
Ông không có quà tặng vợ không phải vì ông vô tâm,
không nghĩ tới mà vì hoàn cảnh eo hẹp quá đấy thôi.
Đọc tới đây tôi lại chợt nhớ đến những câu thơ
ông viết về vợ mình trong ngày cưới:
Ngày nào tôi
đến đón dâu
Thấy bà trong chiếc áo nâu vải
dầy
Thế rồi năm tháng đánh Tây
Áo nâu vá víu
càng dầy càng thâm
( Nét xuân về bà).
Đúng là
trải qua những năm tháng khốn khó vì nuôi mẹ dạy con,
bà đã mỏi mòn, gầy guộc đi. Tấm áo nâu cũng ngày
càng thêm thâm, thêm dầy lên vì nhiều mảnh vá. Nhưng
không vì thế mà nghĩa phu thê nhạt nhoà, tình chồng vợ
vơi bớt. Ngược lại, tình yêu thương của ông đối với
bà ngày càng thêm đằm thắm đậm đà. Vừa nhận được
chút tiền thưởng là ông nghĩ ngay đến vợ rồi mua quà
tặng vợ. Cho nên: “ Tặng hoa tuy muộn nhưng sâu ân
tình” và ông rưng rưng xúc động khi được trao tặng
cho bà, được tri ân đối với bà, người đã từng cùng
ông gánh vác chia sẻ mọi khó khăn gian khổ trong suốt
bao năm tháng “ nuôi mẹ, dạy con”. Cho nên những câu
thơ sau cứ tưởng như chuyển sang một mạch khác, tưởng
như không ăn nhập gì với chuyện tặng quà mà lại thật
đẹp, thật thắm thiết nghĩa tình
Lại thêm cái tết
hoà bình
Tuy chưa nâng chén mà hình như say
Ngoài
trời gió lộng mây bay
Hẳn là tiên nữ hôm nay xuống
trần
Tiên nữ vui với táo quân
Còn tôi, tôi chỉ
vui xuân cùng bà
Ở đây, ngôn ngữ thơ đã mất đi
cái vẻ thật thà kể lể, cái tính chân thực trần trụi
mà trở nên ảo diệu, mơ hồ như thực như hư để diễn
tả niềm yêu, lòng say của tác giả đối với vợ mình.
Hình như tác giả bỗng thấy vợ mình đẹp lung linh như
tiên nữ vậy. Mà với tác giả, giờ đây tiên nữ có
xuống trần đi chăng nữa ông cũng chẳng thèm để mắt
tới, ông chỉ vui xuân cùng bà, tiên nữ của riêng ông
thôi.Bài thơ không hề có một từ yêu, từ thương hay từ
đắm say tha thiết nào mà đọc lên ta vẫn cảm nhận đủ
đầy tình yêu niềm thương và lòng say mê, trân trọng
của tác giả với người vợ tao khang. Có lẽ đây chính
là tình cảm chân thành nhất mà tác giả luôn giành cho
vợ trong suốt bao năm chung sống, giờ đã được chắt
ra thành thơ nên vì thế mà bài thơ cứ tự nhiên gieo vào
lòng độc giả những cảm xúc rưng rưng.
Trên đây là hai, trong nhiều bài thơ mà tôi thích của
hai thi hữu xóm núi chúng tôi. Mỗi thi phẩm đều có một
nét đẹp riêng, một phong cách sáng tác riêng.Tuy không
bay bướm trong ngôn từ, không độc đáo trong cấu tứ
nhưng cả hai thi phẩm đều tạo được dư ba trong lòng
độc giả bởi cái mộc mạc, chân thật trong tình cảm
và trong suy nghĩ của hai ông. Tôi viết vài cảm nhận của
mình về hai tác phẩm đó coi như một nén tâm nhang bái
biệt vong linh hai vị và nói với hai vị rằng thơ ca và
tinh thần của các vị sẽ còn mãi trong lòng chúng tôi,
những người bạn thơ thân thiết của các vị.
Sao
Đỏ : 5-4-2018
Song Thu