( Ảnh hai cha con : Nguyễn Văn Chuyền và Nguyễn Thị Thanh Huyền )
Tuy cùng công tác với Thanh Huyền
trong một cơ quan suốt mười bảy năm trời nhưng do khác phòng, ban nên tôi chỉ
biết đại khái rằng nàng khá xinh gái nhưng
lại không hề may mắn trong cả đời tư lẫn sự nghiệp.
Về đời tư, nàng đã yêu và lập gia đình khá sớm với một chàng cùng quê
nhưng không may cuộc sống chồng vợ luôn luôn cơm chẳng lành canh chẳng ngọt,
đến độ phải: “ Anh đi đường anh tôi đường tôi”. Một tay nàng nuôi dạy hai con
trong lúc đồng lương ít ỏi và tuổi đời
còn khá trẻ. Thế nhưng nàng vẫn tần tảo, chắt chiu xây được nhà cửa đàng hoàng
và nuôi các con ăn học nên người. Nhưng tạo hóa vốn trêu ngươi, khi con trai
nàng vừa ra trường và có công ăn việc làm hẳn hoi thì cháu lại vĩnh viễn ra đi
vì tai nạn xe máy.
Về sự nghiệp, nàng đang giảng dạy
cho các cháu mầm non (con em của cán bộ, công nhân viên trong trường) thì công
việc này bị giải thể. Nàng phải chuyển xuống làm “ anh nuôi” cho bếp tiểu đoàn,
một công việc khá vất vả nặng nhọc lại không hề ăn nhập gì với chuyên môn của
nàng. Tuy vậy, ở lĩnh vực nào nàng cũng làm việc rất tận tâm tận lực và luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nên được mọi người tôn trọng, quý mến. Nàng về
hưu với quân hàm thiếu tắ chuyên nghiệp, đó cũng là một sự bù đắp thỏa đáng,
một niềm vui nho nhỏ trong bước đường sự nghiệp của nàng
Song
còn một điều tôi chẳng hề biết rằng nàng rất yêu thích thơ ca và làm khá nhiều
thơ từ dạo ấy.Mãi tới khi nàng về hưu và sinh hoạt tại tổ thơ câu lạc bộ hưu
trí Côn Sơn của thị xã Chí Linh, tôi mới biết nàng làm nhiều thơ lắm. Thế rồi,
một hôm nàng vào nhà tôi chơi và kể lại rằng, từ ngày xuống bếp tiểu đoàn, em
đã làm thơ. Nhiều khi đang nấu cơm, bất
chợt bắt gặp tứ thơ em cứ thừ người ra mà theo đuổi. Có người thấy thế hỏi: “
Sao vậy”? Em bảo mình đang làm thơ thì họ lại cười khẩy mà rằng: “ Con lạy bà,
tập trung vào chuyên môn cho con nhờ. Thơ với chả thẩn”.Thế có buồn không cơ
chứ?
Đấy cái thời công tác dù bận rộn
đến không có thì giờ mà theo đuổi tứ thơ
nhưng em vẫn làm thơ. Bây giờ về hưu, có nhiều thời gian hơn và tâm
trạng cũng cô đơn trống trải chông chênh hơn nên em lại làm thơ nhiều hơn chị
ạ. Thơ đã giúp em giải tỏa nhiều nỗi niềm và cảm thấy thanh thản. Em biết rằng
mình viết chưa hay, nhưng viết ra được những điều chất chứa làm em nhẹ lòng
lắm.
Tôi bảo, nếu vậy, em cứ viết đi, viết cho mình là chính mà em. Chứ nàng
thơ vốn đỏng đảnh lắm, làm được thơ hay đâu có dễ. Đến các nhà thơ chính hiệu
còn phải than rằng:
Để người đọc nhớ một câu
Bạc đầu người viết chắc đâu đã thành
Chị em mình, dân nghiệp dư chỉ viết chơi thôi.
Cứ có cảm hứng là viết, may ra được câu nào bài nào bạn bè thích đọc là sướng
rồi. Bằng không thì cũng cứ viết coi như trả nợ lòng mình. Nàng gật lia lịa, tỏ
vẻ tán đồng ý kiến đó lắm.
Rồi một hôm khác, nàng vào chơi trao
cho tôi một tập bản thảo “TRĂNG QUÊ và nói : “ Chị xem giùm tập thơ này, rồi
góp ý và biên tập giúp em với. Nếu có cảm hứng chị viết cho em lời giới thiệu
nữa thì hay quá” . Tôi chối đây đẩy: “ Chị có giỏi giang về thơ phú chi đâu mà
biên với chả tập kia chứ. Em nhờ người khác đi. Còn viết giới thiệu thì chị
càng chịu thôi!”. Nàng phân bua.” Năm nay bố em cũng gần tám chục tuổi rồi. Cụ
làm thơ đã nhiều, em muốn xuất bản tặng cụ một tập thơ, chẳng phải mong để đời
hay nổi tiếng gì đâu mà chỉ để tặng anh em con cháu trong gia tộc và bầu bạn
làm chút kỉ niệm thôi. Bố em lại bảo: Thế thì hai cha con tuyển chọn rồi in
chung một tập cho dày dặn. Em cũng chiều theo ý cụ. Chứ thực tình nếu riêng em
thì em chưa muốn xuất bản vội vì nghĩ mình còn trẻ, cứ viết rồi đến cuối đời
mới lựa chọn những bài khá hơn mà ra một tập cho vui. Em tin tưởng chị, chị cố
giúp em với”. Quý bạn bởi sự “tri bỉ,
tri kỉ” (biết mình biết người) chứ không tự phụ như một số “ nhà thơ” câu lạc
bộ cứ làm được vài chục bài văn vần lục bát hoặc mấy chục bài thất ngôn bát cú
luật Đường theo kiểu gò vần, ghép chữ mà đã vỗ ngực cho rằng ta còn hơn cả
Nguyễn Khuyến Tú Xương kia đấy. Có người bỏ tiền ra xuất bản dăm bảy tập thơ và
thuê người viết lời giới thiệu hoặc phổ nhạc rồi tự phụ nhận mình là danh nhân
văn hóa nữa mới khiếp chứ. Gần đây lại nghe nói có người còn sửa cả truyện Kiều
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du nữa kia? Thật là chẳng biết trời cao đất dầy
chi nữa ! Cho nên khi thấy Thanh Huyền nói lý do in sách để làm kỉ niệm cho bạn
bè, người thân và làm vui lòng cha, tôi mới nhận tập thơ và giao hẹn trước : “ Chị chỉ đọc và góp vài ý kiến cá nhân, rà
soát những chỗ thiếu nét, thiếu chữ hoặc sửa lỗi chính tả giúp thôi chứ không
dám biên tập thơ phú gì đâu. Còn viết lời giới thiệu ư, chị không kham nổi”.
Nàng bảo: Em đã đọc nhiều bài bình thơ của chị rồi. Em thích lắm. Với lại từ
hồi còn ở trong trường cơ, em đã nghe nhiều học viên ca ngợi chị giảng văn lắm
mà. Cố giúp em đi chị”. Tôi phân trần: “ Giảng văn là cần câu cơm của chị nó
khác chứ em ơi. Còn viết bình thơ thì
gặp bài nào mình có cảm hứng mới viết, mà chị có viết nhiều đâu. Viết
giới thiệu tập thơ thế này, em phải nhờ những người nổi tiếng ( như mọi người
trong câu lạc bộ vẫn làm) ấy chứ, nhờ kẻ vô danh tiểu tốt như chị làm chi?”. Nàng
vẫn chẳng buông tha mà còn nài nỉ thêm rằng : Em có phải nhà thơ gì đâu mà dám
nhờ người nổi tiếng viết. Em biết chị làm được mà. Giúp em đi”. Tôi vẫn nói
nước đôi : Chị sẽ đọc còn viết được hay không chị không dám hứa đâu”
Thế rồi do công việc bộn bề, tập bản thảo đó
cứ nằm nguyên ở góc bàn đến hàng tháng trời chứ chẳng ít. Khi công việc đã bơn
bớt, tôi mới giở ra đọc. Điều làm tôi thú vị trước hết khi đọc tập thơ này là
cả hai cha con Thanh Huyền đều yêu thơ, ham sinh hoạt các câu lạc bộ thơ và rất
ham làm thơ nữa. Hầu như bắt gặp một hình ảnh lạ, một cảnh ngộ đặc biệt hay một
kỉ niệm nào ùa đến cũng đều được họ viết thành thơ bằng một cảm xúc dào dạt
chân thành đầy tin yêu và tha thiết của chính trái tim mình; bằng cách cảm cách
nghĩ của riêng mình. Vì thế mà cùng viết về quê hương ( thôn Bích Nham xã Văn
Đức của vùng đất Chí Linh) thì mỗi cha con lại lung linh một niềm yêu nhớ, một
góc nhìn một cách cảm thật riêng tư. Với người cha, quê hương là hình ảnh ánh
trăng quê trong ngần diệu vợi và lung linh
thi hứng:
Bát
ngát mênh mông ánh nguyệt hồng
Như quyện như hòa với núi sông
Thiên phú trăng quê nguồn thi hứng
Ánh vàng vô tận biển văn phong
( Trăng quê)
Là mái
trường quê thân thương bình dị mà trong
sáng đến vô ngần như lứa tuổi học trò hồn nhiên, vô tư và trong veo đến lạ:
Trường em ở dưới chân đồi
Không dàn hoa lý vẫn ngời sắc xuân
Mặt tiền hồ bát ngát xanh
Nước đầy trong mát đọng thành ý thơ
( Trường em ở dưới
chân đồi)
Là mái chùa
quê hòa quyện với cảnh quê làm nên nét đẹp vừa thiêng liêng vừa gần gũi đậm hồn
quê hương:
Chùa quê ôm giữ cảnh quê
Lá đa rải chiếu trưa về nghỉ chân
( Chùa quê)
Hay:
Mái rêu cong tự ngàn xưa
Còng lưng gánh đỡ gió mưa với đời
( Chùa quê)
Là hình ảnh
cái giếng làng ngọt mát như một ám ảnh với mỗi người con xa quê. Và đặc biệt,
quê hương với ông còn là hình ảnh những thôn nữ xinh đẹp, dịu dàng, duyên dáng
và thuần hậu biết bao nhiêu
Về quê gặp gió hương đồng
Gặp mây chở nắng mênh mông đầy trời
Gặp em hoa nở nụ cười
Con sông thiên phú muôn đời ngát xanh
Dịu dàng chiếc nón nghiêng vành
Nụ cười xiêu cả mái đình cây đa
( Về quê)
Nhưng với Thanh Huyền, vùng quê ấy đã neo vào lòng nàng để thành nỗi nhớ
niềm thương khôn tả lại là những mái nhà, những bờ tre, khóm chuối, cánh đồng,
những thôn xóm với những thửa ruộng gieo trồng từng loại cây khác nhau rất cụ
thể:
Nhớ sao từ những mái nhà
Bờ tre, khóm chuối cây đa sân đình
Bích Nham Văn Đức nghĩa tình
Đây rồi xóm Trại, thôn mình làng trên
Hoặc:
`Con đường xưa lối đi về
Cây Thông,
gieo mạ; Trại Tre, lạc vừng
( Quê tôi)
Và con
người nơi quê hương yêu dấu ấy lại là hình ảnh những bà mẹ một nắng hai sương
trên ruộng đông nơi : “Đất quê mặn nước chua phèn” hay lần hồi tần tảo chốn chợ
quê với những mớ tôm mớ tép nhỏ mọn mà kiếm tiền nuôi con:
Dọc ngang hàng quán chợ quê
Cái tôm cái tép mua về nuôi con
Gom vào thúng đựng vào xoong
Tảo tần bóng mẹ hai dòng lệ ngân
( Chợ quê)
Tuy những
câu thơ trên chưa thật nuột nà, thậm chí còn ép vần nhưng nó vẫn gợi ra hình
ảnh khá sinh động cụ thể về người mẹ nghèo xứ quê với những gom nhặt chắt chiu
trong vất vả lặng thầm với biết bao thương cảm làm lay động lòng ta.
Ngoài cái đề tài chung là quê hương
thân yêu ấy, mỗi cha con lại có những đề tài của riêng mình. Người cha, đã từng
có mặt trên chiến trường chống Mỹ cứu nước nên kỉ niệm của một thời xưa ấy cứ
trở về trong tâm khảm và trở thành nỗi nhớ niềm yêu thật thiết tha, thật tươi
mới khi ông đã ở vào độ tuổi “ Cổ lai hy”
Đây là tâm trạng đầy hoài niệm của
ông về buổi lên đường, khi đi qua những cánh đồng quê:
Qua Hà Tây những luống cày mới vỡ
Nghe mênh mông nóng hổi hương đồng
Ôi! Những cô gái chăn tằm Đan Phượng
Cái nhìn xanh ngát nương dâu
( Lên đường)
“ Cái nhìn xanh ngát nương dâu”
là một câu thơ thật đẹp, thật lạ, rất gợi và vô cùng ám ảnh. Chẳng biết với mọi
người thì thế nào chứ với tôi, đây quả là một câu thơ tạc nên hình tượng người
thôn nữ trong công việc tầm tang có vẻ đẹp tươi giòn mà đằm thắm, có cái nhìn
mênh mang mà trong lành, lúng liếng mà đoan trang tha thiết khiến ta gặp một
lần là không thể nào quên . Có thể nói, trong thơ ca ít có câu thơ nào viết về
thôn nữ lao động đẹp đến thế, thơ đến thế!
Nhìn chiếc ba lô con cóc, ông bỗng rưng rưng bao kỉ niệm về một thời
chiến tranh đã qua: “ Gặp lại em- chiếc ba lô/ Một thời oanh liệt bây giờ là
đây? Bao nhiêu năm bụng lép gầy? Chung lưng đấu cật cái ngày chiến tranh” Rồi
cũng từ chiếc ba lô con cóc ấy, ông lại liên tưởng đến tình yêu thương giữa
chàng lính trẻ với người con gái chốn quê nhà:
Ba lô con cóc anh đi em khóc
Gửi hai túi cóc căng phồng nhớ thương
( Ba lô cóc)
Cuộc sống
thời chiến với biết bao gian khổ, thiếu thốn nhưng ông vẫn nhớ về nó như những
kỉ niệm đẹp của tình người với biết bao cần mẫn toan lo và nhường nhịn yêu
thương:
Vẫn còn nhớ mãi một thời
Chiến tranh cứu nước tình người tình
quê
Bom rơi đạn nổ bốn bề
Đường xa gánh nặng đêm khuya không
đèn
Cấy cày đợi ánh trăng lên
Liền vai khẩu súng ngày đêm canh
trời
Bên nhau rộn rã tiếng cười
Bát cơm sẻ nửa chia nơi chiến trường
Khó khăn thiếu thốn đủ đường
Xếp hàng tem phiếu mà nhường nhịn
nhau
Nửa chai mắm một phao dầu
Thịt đường vài lạng chia nhau lần
hồi
( Một thời để nhớ).
Đặc biệt
với ông, hình ảnh những người lính không chỉ đẹp trong một thời chinh chiến “
Áo bông trấn thủ một thời gian nan” đã “ Làm nên chiến thắng” mà về với cuộc
sống thời bình, họ vẫn vẹn nguyên tinh thần tình cảm cao đẹp đó. Bởi tấm lòng
yêu thương nhau, sự cần mẫn trong công việc và ý chí vượt lên gian khó bằng
tình cảm lạc quan trong sáng rất chiễn sĩ, rất con Người:
“Đêm đông ngọn lửa sưởi chung
Rét ôm nhau ngủ giữa rừng Tuyên
Quang”
…” Đi làm chỉ có cuốc cày
Con dao cái xẻng mà say nông trường
Anh em từ khắp muôn phương
Chia nhau củ sắn còn thương đến giờ”
Hay:
Về đây làm thợ tài hoa
Mồ hôi đẫm áo thế mà vẫn vui
Miếng cơm đổi bát mồ hôi
Nghe con chim hót tưởng trời sang
xuân”
( Nhớ về Tuyên Quang)
Vốn trải đời, nên ông hay ngẫm nghĩ
trước mọi hình ảnh thiên nhiên , cuộc đời hoặc con người mà viết thành thơ. Vì
vậy, thơ ông mang một đặc điểm khác biệt với thơ của Thanh Huyền (con gái ông)
là thường có những triết lý, những khái quát khá ấn tượng và khá sâu sắc mà vẫn
giữ được cách nhìn hồn nhiên trong trẻo của người thơ. Ví như, nói về sự kì
diệu của nước, ông có những câu:
Khi vui đi khắp bốn bề
Lúc buồn rơi lệ lại về mắt xanh
Hóa thân giữ lá cho cành
Thổi hồn vào đất ngát xanh vô bờ
( Tình yêu của nước)
Trong bài:
“ Có mà không”, khi chứng kiến một cơn giông vần vũ giống như một “trận cuồng
phong” của đất trời với tiếng ếch nhái kêu ran khắp nơi, với những “Sao đất,
sao trời khua tất cả” và đến cả “ Chị Hằng chú cuội cũng chạy rông” thì ai cũng
nghĩ rằng trời sẽ mưa như trút xuống trần gian. Nhưng không, cơn giông vụt qua,
cơn đau đẻ nước của Trời bỗng tắt lịm và trần gian chẳng có giọt nước nào, ông
hạ bút:
Cơn đau sinh nước là như thế
Sấm vang chớp giật lửa đỏ hồng
Thiên cung cho cả rồi lấy hết
Tưởng mình được nước hóa ra không
( Có mà không)
Đọc những
câu thơ trên tôi như thấy cả cái kì vĩ trong trường ca“ Đẻ đất đẻ nước” của
người Mường xưa và cái triết lý sâu sắc
của cuộc đời nay được kết tinh trong thơ Văn Chuyền vậy.
Một điều thú vị nữa khi đọc thơ Văn
Chuyền là ta cảm nhận được con người thơ trong ông rất giàu ý thức trách nhiệm
trước cuộc đời. Vì thế mà, dẫu đã đi qua thời chinh chiến, về công tác tại đoàn
ca múa nhạc Tổng cục chính trị, trực thuộc Bộ quốc phòng Hà Nội, rồi lại chuyển
ngành về công tác tại đài truyền thanh tỉnh Hải Dương, đến lúc về hưu ông vẫn
cùng vợ con lao động như một người nông dân thực thụ nơi đồng đất quê minh và
tham gia rất nhiều câu lạc bộ thơ. Hiện nay,
tuy đã xấp xỉ vào tuổi tám mươi, ông vẫn gắn bó với công việc ruộng
đồng, vẫn tham gia các hoạt động xã hội
rất tích cực, ông ở trong Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ thơ Cựu giáo chức thị xã Chí
Linh. Thế mà ông lại luôn có cảm giác mình mắc nợ với cuộc đời: “ Nợ đời như
núi như sông / Nợ trời như biển vô cùng bao la”; mắc nợ với con người: “ Nợ cô
gái trẻ tiếng cười / Nợ em ngày ấy nói lời yêu thương” ; mắc nợ với cả cảnh trí
bình thường nơi thôn dã: “Nợ bông hoa súng ven đường” và nhất là mắc nợ với
mảnh đất quê hương:
Nợ quê hương đất mẹ sinh
Nào ai trả được nghĩa
tình đất quê
Nợ người vất vả sớm
khuya
Cho ta cuộc sống say mê
ở đời
Một mai về đất, lên trời
Tôi xin khất nợ với
người cho vay
( Nợ)
Ngoài những điều đã đề cập trên đây,
đọc thơ Văn Chuyền ta còn tìm thấy tình cảm của ông với cha, mẹ, vợ, con… cũng
thật là đằm thắm. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này tôi không thể giới
thiệu hết được mà để các bạn đọc thơ ông sẽ tự khám phá , tìm hiểu thêm.
Sẽ là rất thiếu sót khi viết về tập
« TRĂNG QUÊ » mà không đề cập đến những vần thơ của con gái Văn
Chuyền là : Nguyễn Thị Thanh Huyền. Bởi lẽ,tập « Trăng quê » gồm
162 bài thơ, thì có 78 bài của người cha- Văn Chuyền và 84 bài của con gái ông-
Thanh Huyền. Ngoài đề tài chung giữa hai cha con là cùng viết về vùng quê mình,
Thanh Huyền lại đi vào những đề tài rất riêng mang đậm dấu ấn của người phụ nữ
ít may mắn trong trường đời nhưng rất
mạnh mẽ độc lập trong cuộc sống mà không kém phần nhạy cảm, tinh tế, giàu tình
yêu thương, rất dễ mủi lòng và luôn đồng cảm với những thân phận mỏng manh ,
chìm nổi. Thơ Thanh Huyền có những bài gói ghém cả một đời công tác 34 năm với
bao nhiêu biến đổi của mình : Từ người con gái nông trường đến cô giáo mầm
non rồi chuyển sang làm cô cấp dưỡng trong Tiểu đoàn II Trường QS QK3 cho tới
lúc nghỉ hưu ( Ký ức thời gian). Đồng thời ta lại tìm thấy trong thơ nàng nhiều
bài, nhiều câu nói về nỗi niềm riêng với
biết bao tủi sầu đau xót của người thiếu phụ lỡ dở duyên tình. Có khi nỗi niềm đó
ẩn hiện trong một chiều mưa nơi góc phố :
Gió cứ thổi và
trời trắng mưa bay
Có ai hiểu nỗi lòng
người thiếu phụ
Ngọn đèn đơn đêm đêm lẻ
bóng
Mãi âm thầm bao kỉ niệm
khôn nguôi
( Góc phố chiều mưa)
Có khi nó lại
chơi vơi mà xa xót ngay cả chốn đợi chờ đến mông lung giữa dòng đời trong đục
khôn lường :
Yêu thương trót
dại ngẩn ngơ
Dòng đời trong đục câu
thơ cháy lòng
( Em đợi)
Nỗi đau phận mỏng
ấy len lỏi cả vào lúc nàng nhận được lời nói yêu thương của người ta khi tuổi
đã xế chiều. Và nàng đã thảng thốt van
nài : « Xin anh đừng nói lời yêu ». Bởi nàng biết
rằng : « Anh hạnh phúc ấm êm/ Em đơn côi phận mỏng » cho
nên trong đường đời đầy gai góc này, em chẳng có một lối đi bằng phẳng đâu và
giữa cõi yêu dịu ngọt ấy em cũng chỉ nhận về những chua chát đắng cay
thôi ;
Hương tình yêu ngọt lịm
Mà vị đắng riêng em
(Đừng nói lời yêu)
Có khi nó hiển
hiện rõ ràng trong nỗi niềm tiếc nuối đến ngẩn ngơ « về một thời thiếu nữ
kiêu sa » nhưng dại khờ đã trao xương gởi thịt vào một bến đời đen
bạc :
Thôi rồi trả lại tình
anh
Dại khờ yêu đến kết thành lứa đôi
Miếng trầu thiếu nhạt chút vôi
Làm sao thắm được những lời mộng mơ
( Tiếc nụ tầm xuân)
Để nên nỗi phải dở khóc dở cười trong bóng lẻ đơn côi :
Ngu ngơ giữa
chợ bên đường
Khăng khăng ôm
mối tình thương một người
Tàn canh bạc
dở khóc cười
Cút côi lẻ
bóng một đời dở dang
( Canh bạc cuộc đời)
Không chỉ có nỗi đau lỡ dở duyên tình, nàng còn
gánh chịu nỗi đau mất đi phần máu thịt của đời mình đúng vào lúc đã đặt một
chân sang phía bên kia cái dốc cuộc đời,
đúng vào lúc tưởng như sẽ được tựa vào con mà sống. Cho nên, trong thơ nàng,
nỗi đau tột cùng ấy nó mới quặn thắt, vật vã làm sao. Nàng như trở nên hoang
dại vì mất con và ngày ngày nàng cứ tựa cửa ngóng chờ tiếng xe máy như mỗi chiều
con vẫn trở về bên mẹ : « Mẹ ngồi tựa cửa ngóng trông » hay :
« Chờ con dằng dặc cuối trời » rồi lại giật thót mình vì con
đâu còn nữa, con chẳng thể về và lòng mẹ tái tê, tim mẹ đớn đau, một nỗi đau
không bao giờ liền sẹo :
Héo
hon tận đáy nỗi niềm
Nhớ
con tim mẹ sao liền vết đau
( Chờ con)
Và mỗi lần làm giỗ cho con lại một lần nỗi đau rớm máu đến chừng như tan nát cả cõi
lòng : « Nỗi đau thắt ruột-Nỗi đau ! Xót xa xát muối nát nhàu
con tim ». Có lúc, nỗi đau ấy lại trở nên tích tụ trong câm nín lặng thầm
mà trĩu nặng cả cuộc đời vốn đã rất nhiều chìm nổi của nàng : «
Tháng ngày thùi thũi lặng im/ Thương con phận mẹ nổi chìm thiệt hơn ». Thế
rồi trong cảnh « Cửa nhà vắng ngắt, ngắn dài lệ rơi » nàng thắp hương
cho con ngày giỗ mà hồn cứ chìm đi trong niềm nguyện cầu tha thiết mong được
gặp bóng hình con giữa bảng lảng khói
hương :
Thắp cho con
nén tâm hương
Nguyện cầu
hình bóng khói sương con về
(Nhớ con ngày giỗ)
Còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của người mẹ nuôi con từ hòn máu đến khi
con trưởng thành, to cao lừng lững, có công ăn việc làm ổn định thế mà bỗng
chốc mất con để bây giờ chỉ ao ước cái hình hài cụ thể của con xưa giờ hãy về
đây trong mơ hồ, lãng đãng trong phảng phất như khói như sương với mẹ con
ơi ?!
Phải chăng vì niềm riêng
nhiều đớn đau đến nhường ấy nên đọc thơ
Thanh Huyền, ta thấy nàng rất giàu cảm thương những người bạc phận ? Này
đây là nỗi lòng của nàng với người con gái quá lứa lỡ thì : « Xuân
chiều muộn đủ mọi điều / Đường quê em bước liêu xiêu bóng tà / Lỡ duyên cao số
những là / Chuyến đò em đợi đi xa mất rồi » (Xuân chiều). Đây lại là tình
thương của nàng với người thiếu phụ phải bỏ con ở nhà mà tha hương nơi xứ người
đất khách làm ô sin kiếm tiền nuôi con : « Ô sin cách mấy phương
trời / Tha hương đất khách xứ người ai hay » (Tha hương). Khi đến thăm
người phụ nữ có chồng hy sinh nơi chiến trận rồi ở vậy thờ chồng, bằng trái tim
nhạy cảm, nàng đã thấu hiểu nỗi khát khao làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ đó và
diễn tả bằng những câu thơ chân mộc mà vẫn đủ sức lay động lòng ta :
Mảnh mai phận
gái bơ vơ
Tiễn chồng ra
trận nào ngờ lẻ đôi
Đêm đêm chợt
tỉnh giấc mơ
Thèm nghe một tiếng con thơ trong
nhà
(Chinh phụ thờ chồng)
Nàng thương người bạn gái, tuổi vào thu mà tan vỡ gia đình đang bơ vơ không
có một mái nhà của riêng mình nên chưa biết về đâu giữa những ngày nghỉ tết
nguyên đán:
“Xuân về
vui đủ mọi nơi
Em tôi vội
bước chơi vơi cuối đường
Em về đâu
giữa đời thường
Về đâu sưởi
ấm yêu thương vỗ về”
(Tặng em)
Thậm chí, gặp người thôn nữ một mình tát nước gầu dây ven đường, nàng đã
ngùi ngùi thương cảm và muốn mình hóa thân thành một đấng nam nhi để được tát
nước cùng nàng thôn nữ ấy:
Chiều hôm
nắng trải êm đềm
Em đi tát
nước mình em qua ngày
Múc, đổ,
lôi, kéo sao đây?
Mượn cây
làm cọc buộc dây thay người
Thế rồi
nước cũng reo vui
Theo tay
từng nhịp giữa trời quê hương
Anh đi qua
lại thấy thương
Muốn làm
thay cọc bờ mương tát cùng
( Tát nước)
Thực tình là tôi rất khó hình dung ra cách tát nước của cô thôn nữ này.
Bởi vì, đã từng đi tát nước gầu dây nên tôi hiểu đây là một việc làm đòi hỏi sự
nhịp nhàng, đồng điệu trong từng động tác giữa hai người. Từ việc thả dây, vục
nước đến cánh ưỡn người kéo nước, cách nâng tay đổ nước. Nếu một người biết tát
mà một người mới tập thì đã thấy không ăn nhập mấy rồi còn cả hai người mới tập
thì gầu được gầu hỏng, lóng nga lóng ngóng lướ qua lướ quớ trông buồn cười lắm.
Thế mà cô thôn nữ ở đây lại “ Mượn cây làm cọc buộc dây thay người” thì không biết là sẽ tát múc ra sao? Nhưng
đọc bài thơ của Thanh Huyền, tôi cứ thấy vừa thương cảnh ngộ, vừa cảm phục cách
sáng tạo trong lao động của cô thôn nữ. Đặc biệt là tôi cảm nhận được giá trị
nhân văn toát lên trong bài thơ khi Thanh Huyền bỗng thoát xác để trở thành một
anh chàng giàu cảm thông,tình nguyện tát nước cùng thôn nữ làm cho bài thơ có
một nét vui bật lên từ cảnh ngộ buồn, một nét đẹp bật lên từ nỗi vất vả.
Có lòng yêu thương
những con người thua thiệt đến thế nên tình cảm với cha, mẹ, với anh chị em
trong gia đình nơi thơ Thanh Huyền cũng thật thiết tha đằm thắm. Nàng thương
cha già mà vẫn phải tần tảo sớm hôm và muốn tìm lời hát ngọt ngào nhất tha
thiết nhất dâng tặng cha. Nàng mừng vì cha thêm tuổi mới mà vẫn mạnh khỏe. Nàng
trân trọng tình yêu thương các con lặng thầm và sâu sắc của cha :
Đêm trăn trở tìm câu hát tặng cha
Mừng xuân
về cha được thêm tuổi mới
Cả đời cha
lúc nào cũng vội
Dành tình
thương thay tất cả muôn lời
Với nàng, sức khỏe của cha, tuổi thọ của cha là món quà vô giá, là niềm
sung sướng, tự hào của con cháu trong nhà: “ Mùa xuân nay cha khỏe mạnh hơn xưa
/ Món quà quý, niềm tự hào con cháu” ( Thương cha). Điều này có thể là không
mới, không đặc biệt, thậm chí là phổ biến, là xưa như trái đất nhưng dù sao thơ
viết về cha như thế vẫn làm cho người đọc thấy ấm lòng và chắc chắn là cha nàng
cũng cảm nhận rõ ràng mình được con thấu
hiểu, trân trọng, đền đáp mà càng thêm khỏe, thêm vui.
Nàng nức nở, nghẹn lời bên mộ mẹ và hình dung
rõ mồn một về hình ảnh mẹ với biết bao vất vả toan lo trong cuộc đời “gánh cả
khóc cười trên vai” nên đã vội về già khi tuổi chửa kịp già: “Vẹt mòn bàn tay
bới chải nuôi con / Đôi chân trần bấm sâu vào khe đá / Quên nhọc nhằn mong
khoai sắn lên xanh” đến nỗi “ có được nụ cười” cũng là “ chắt ra từ nước mắt” (
Lời ru bên mộ mẹ). Những lời thơ bình dị mộc mạc thô ráp chất đời như chạy từ
hiện thực cuộc sống của mẹ vào thơ chứ không hề nói quá lên, nói bóng bẩy đi,
càng không hề có những từ ngữ biểu hiện cảm xúc như nhớ, thương, đau xót mà lại
có sức khơi gợi rất lớn về những khổ ải nhọc nhằn của mẹ và ẩn chứa tình thương
sâu đậm của con với mẹ. Thế mới biết, trong thơ không phải cứ gào lên tôi rất
yêu, rất thương, rất buồn rất đau là nói được những tình cảm đó !
Là người phụ nữ mạnh
mẽ, luôn đứng vững trước mọi thăng trầm cuộc sống, luôn vượt lên cảnh ngộ của
riêng minh nên thơ Thanh Huyền không chỉ có nỗi đau, miền thương cảm mà còn
tràn ngập niềm vui . Nàng vui khi em có nhà mới “ Đến nay kết trái đơm hoa /
Thênh thang nhà mới thế là mừng em”. Nàng mỉm cười trong sung sướng tự hào khi
thấy em gái mình đã vượt qua mọi vận hạn và vươn lên có cuộc sống đủ đầy bằng
người. Nàng hân hoan khi được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp riêng của mọi miền quê đất nước Việt Nam và nước ngoài trong mỗi chuyến
du lịch.. Ví như khi đến đất mũi Cà Mau nàng phơi phới trước cảnh trời mây sông
nước “ Trời xanh mây trắng Cà Mau” hay “ Hai bờ đước, sú gió rung / Dừng chân
cột mốc trập trùng biển khơi” và tha thiết với lời ru, câu hát giữa sông nước
bao la “ Bên bờ ai hát à ơi / Ru bồng bềnh gió, ru vời vợi sông”. Có khi nàng
lại mê mải đi tìm “cây cọ xòe ô” giữa miền trung du Phú Thọ hay thích thú đến
mê say bởi vẻ đẹp của đảo Tuần Châu, đảo Cát Bà hoặc ngỡ ngàng bởi hàng hóa
nhiều vô kể nơi chợ Cái Răng bên bến Ninh Kiều rồi lại giăng mắc với những câu
quan họ chốn hội Lim. Nàng choáng ngợp trước vẻ đẹp lỗng lẫy của cung điện Thái
Lan:”Cung điện lóng lánh sắc màu / Hoàng gia lộng lẫy tìm đâu sánh cùng” hay mê
say trước vẻ đẹp của Ma lay, Singapo… Có thể nói, dấu chân nàng đặt đến nơi đâu
thì tâm hồn nàng lại rộng mở và cảm xúc lại thăng hoa để vút lên thành thơ ngợi
ca vẻ đẹp của nơi đó.
Song có lẽ, niềm vui
lớn nhất đối với nàng là con gái trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định, có
hạnh phúc lứa đôi êm ấm mặn nồng. Đặc biệt là khi cô con gái cưng ấy lại sinh một
bé trai bụ bẫm kháu khỉnh thì niềm vui như ngập tràn hồn nàng. Nàng thấy mình
trẻ ra, hồn mình thắm lại, đời mình lên hương. Nàng ấp iu,bồng bế, ru hời trong
phơi phới hồn thơ. Với nàng, cháu không chỉ là một báu vật vô giá mà còn là một
thiên thần. Trong thơ, nhiều lần nàng thốt lên: “ Thiên thần của bà ơi” hoặc: “ Thiên thần bụ bẫm lon ton / Miệng cười chúm
chím môi son da hồng” .
Còn rất nhiều cung bậc cảm xúc trong thơ Thanh Huyền mà tôi chưa khám
phá hết hoặc chưa thể hiện ở bài viết này. Độc giả hãy khám phá thêm chắc sẽ thấy nhiều điều thú vị
khi đọc tập Trăng Quê này đấy ạ.
Tuy nhiên, tôi cũng
muốn nói thêm rằng: Trăng quê là tập thơ của cha con Thanh Huyền, hai thi nhân
không chuyên. Họ làm thơ là để trải lòng mình với cuộc sống với người thân
trong gia tộc và bầu bạn. Cho nên họ chưa có cách cấu tứ thơ chuyên nghiệp,
chưa sử dụng thành thạo các biện pháp tu
từ trong thơ để tạo ra những từ ngữ đắc địa, những thi tứ mới lạ , những sự đa
thanh đa nghĩa trong thơ để làm nên “ ý tại ngôn ngoại”. Họ cứ nghĩ sao viết
vậy ; có cảm hứng vui, buồn, yêu, ghét thế nào thì viết tuột ra thế ấy nên
không tránh khỏi sự dễ dãi, dài dòng trong thơ làm cho có những bài thơ ý đã
hết rồi mà lời vẫn còn quanh quẩn mãi. Mặt khác vốn ngôn ngữ của họ chưa phong
phú nên nhiều từ ngữ trong thơ họ còn sáo mòn, cũ kĩ . Thậm chí ở một số bài
còn thể hiện rõ sự diễn đạt vụng về, sự gò vần ép chữ khiến câu thơ chưa thanh
thoát và bài thơ còn nặng nề chưa sáng rõ ý định thể hiện của mình. Tuy vây,
đọc tập Trăng quê, ta vẫn tìm thấy tiếng lòng của những con người thật hồn hậu,
chân mộc, giàu tình yêu thương với người thân, bạn bè, với quê hương xứ sở, với
thiên nhiên, tươi đẹp của đất trời. Ta còn thấy rõ một lối sống lành mạnh khỏe
khoắn của con người giàu ý chí nghị lực luôn vượt lên gian khó, vượt lên chính
mình để xây dựng cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn. Đó chẳng phải là một điều đáng
quý, đáng trân trọng trong con người thơ và tấm lòng thơ của hai cha con Văn
Chuyền và Thanh Huyền sao? Và dẫu rằng chưa chuyên nghiệp trong thi pháp nhưng
ở tầm độ thơ câu lạc bộ thì đây cũng là hai cây bút rất khá không dễ gì nhiều
người có được
Trên đây là vài cảm
nhận của cá nhân tôi khi đọc tập Trăng quê chắc chắn không thể tránh khỏi sự
chủ quan, phiến diện. Nếu còn điều gì
bất cập hoặc mạo phạm rất mong được tác giả và bạn đọc lượng thứ.
Sao đỏ 30-9-2014
Song Thu