Sáng nay, vừa tỉnh giấc,
tôi mở tung cửa bước ra sân hít thở khí trời. Chợt
nhìn thấy cây tường vi mới hôm nào hoa
hồng rực rỡ một góc sân lá xanh thắm như tăng thêm vẻ đẹp sung mãn, tràn
trề sức sống. Thế mà hôm nay hoa đã hết và lớp lá xanh kia đã chuyển
màu
vàng đỏ, rụng đầy sân bay bay trong gió sớm. Bỗng dâng lên trong lòng
một cảm
giác nao nao khó tả rồi tự dưng lại nhẩm đọc câu thơ : “Thu đến cây nao
chẳng
lạ lùng” trong bài “Tùng” của Nguyễn Trãi. Và cứ thế đọc hết cả bài thơ
để rồi
càng yêu thêm vẻ đẹp của Tùng, vẻ đẹp của bản lĩnh anh hùng cứng cỏi
cũng như
tâm hồn thi nhân tinh tế nhạy cảm và tấm lòng dứt mực vì dân của “danh
nhân văn
hóa thế giới”, Nguyễn Trãi
Vâng thu đến muôn cây đều đổi thay theo quy luật của tạo hóa “ Xuân
sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàn”. Chỉ có mình cây tùng là bất tuân quy luật
ấy. Nó vẫn ngạo nghễ xanh thẫm coi thường cái rét cắt da cắt thịt của ba tháng
mùa đông:
Một mình lạt
thuở ba đông
“ Lạt” là một từ cổ có nghĩa là
coi thường nhưng âm hưởng trầm bình chắc khỏe của nó tạo ấn tượng mạnh hơn. Vì thế tự nhiên ý thơ được nhấn mạnh nổi bật
hơn và hình tượng cây tùng cũng trở nên cứng cỏi, mạnh mẽ , hiên ngang hơn.
Nhưng: ai ( dám) bảo rằng tùng chỉ làm khách chốn sơn lâm? ( Lâm tuyền
ai rặng già làm khách?) Vẻ đẹp của tùng đâu phải chỉ đơn thuần là vẻ đẹp vì
chính bản thân nó hay là góp phần trang hoàng cho núi rừng thêm kì vĩ tráng lệ?
Không, tùng thiết thực hơn, hữu ích hơn bởi “ tài lương đống” của nó.
Tài đống
lương cao ắt cả dùng
Đống lương
tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi
phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết
sương thấy đã đặng nhiều ngày
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc
trường sinh càng khỏe thay
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành còn để trợ dân này
Cách dùng điệp ngữ, điệp cú pháp trong các câu thơ trên tạo giá trị thẩm
mỹ cao cho đoạn thơ. Nó có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định giá trị đích thực to
lớn của cây tùng là dùng vào việc lớn, việc trọng đại có ích cho đời, là dành
tất cả những gì tinh túy nhất, quý giá nhất để trợ giúp cho dân !
Bài thơ thất ngôn chen lục ngôn rất tự nhiên nhuần nhị và dường như sức
nặng của ý thơ lại dồn vào những câu lục thì phải. Này nhé:
Một mình lạt thuở
ba đông
Cội dễ bền dời
chẳng động
Dành còn để trợ dân này.
Nếu hai câu lục trên nhằm lột tả tư thế vững chãi, sức sống bất diệt
trước mọi thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt của cây tùng thì câu lục kết bài lại
khẳng định lợi ích của tùng một cách rất chắc chắn, rất dứt khoát: “ Dành còn
để trợ dân này” .
Nên nhớ rằng, trong quan niệm của người xưa, tùng, trúc là vẻ đẹp ngay
thẳng cứng cỏi, khỏe khoắn tượng trưng cho
bản lĩnh, khí phách của người quân tử. Song đọc bài thơ này, ta không chỉ nghĩ tới hình ảnh
một người quân tử, một đấng trượng phu chung chung nào đó mà liên tưởng ngay
đến cuộc đời Nguyễn Trãi, tinh thần,khí phách và tư tưởng “ nhân nghĩa cốt ở
yên dân” của Nguyễn Trãi. Với tôi, hình ảnh cây tùng “ lạt thuở ba đông” và
trải mấy tuyết sương vẫn sâu rễ bền cội
“ dời chẳng động” cũng chính là hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi
luôn vững vàng, bản lĩnh trước bao nhiêu giông gió cuộc đời;Từng “ nếm mật nằm
gai “ với nghĩa quân Lam Sơn để đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà, làm
nên chiến thắng vang dội hào hùng của dân tộc Việt thế kỷ XV khiến muôn đời sau
nhìn lại còn thấy tưng bừng sảng khoái và biết mấy tự hào
Gươm mài đá đá núi cũng mòn
Voi uống nước nước sông phải cạn
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”
( Cáo bình Ngô)
Dốc lòng trong thời loạn, đến thời bình, Nguyễn Trãi vẫn một mực thẳng
ngay, bất khuất kiên trung chống lại cường quyền bạo ngược bảo vệ chân lý: “
Vườn quỳnh dầu chim kêu hót / cõi trần có trúc đứng ngăn” (Tự thán- bài 40).
Song điều đáng quý nhất ở Nguyễn Trãi chính là tư tưởng nhân nghĩa hết
sức tân tiến . Ngay sau chiến thắng giặc Minh, thác lời Lê Lợi, viết “Cáo Bình
Ngô”, Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thời bình
ông vẫn tâu với nhà vua rằng: “Dám mong bệ hạ rủ lòng thương yêu và chăn nuôi
muôn dân để cho khắp thôn cùng ngõ vắng không đâu còn tiếng hờn giận oán sầu”.
Cái nỗi niềm đau đáu trong suốt cuộc đời Nguyễn Trãi chính là mơ ước xây dựng
một xã hội thái bình thịnh trị để người dân được sống vui vẻ yên bình no đủ như thời Nghiêu
Thuấn: “ Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn / Chừng ấy ta đà phỉ sở nguyền”
Thương thay, con người toàn tài hiếm có và tâm đức sáng ngời đó lại bị
bọn xu nịnh, bất tài, mượn cớ vụ án " Lệ chi viên" vu oan giá họa đến
mức phải chịu án chu di ba họ. Mãi đến năm 1464, thời trị vì của vị minh quân Lê Thánh Tông thì Nguyễn trãi mới được
minh oan, được đánh giá đúng với tài
năng đức độ của mình “ Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” ( lòng Ức Trai sáng
tựa sao khuê). Cũng chính vua Lê Thánh Tông đã cho sưu tầm lại thơ văn của
Nguyễn Trãi và tìm con cháu còn sống sót của ông để bổ làm quan. Năm 1980
Nguyễn Trãi đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Còn với nhân dân Việt Nam, Nguyễn
Trãi mãi mãi là anh hùng dân tộc, là nhà văn hóa lớn. Nhất là tư tưởng “ nhân
nghĩa cốt ở yên dân” của Nguyễn Trãi sẽ được muôn đời tôn vinh, ngưỡng mộ, truyền tụng.
20-10-2013
Song Thu